NỘI DUNG CHÍNH
Sinh trắc học dấu vân tay là một thuật ngữ khá phổ biến hiện nay được các bậc phụ huynh, các nhà quản lý nhân sự cũng như cá nhân quan tâm. Sinh trắc vân tay là một ngành khoa hoc nghiên cứu về mối liên hệ giữa vân tay và các chức năng não bộ đề từ đó phát hiện điểm yếu, điểm mạnh của một người để từ đó tận dụng điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu giúp phát triển bản thân một cách hoàn thiện hơn.
THÔNG TIN CHUNG VỀ SINH TRẮC VÂN TAY
Sinh trắc vân tay được phối hợp bởi nhiều ngành khoa học khác nhau bao gồm: thần kinh học, tâm lý học, khoa học về gen, phôi thai học và vân tay học. Ngành khoa học sinh trắc vân tay là một trong những thành quả khoa học được nghiên cứu và phát triển lâu dài với hơn 7000 báo cáo trong thời gian qua. Hãy cũng ELite Symbol điểm qua một số những mốc thời gian phát triển quan trọng của ngành nhé!
Mặc dù lịch sử của khoa học nghiên cứu dấu vân tay đã xuất hiện từ rất lâu nhưng người đặt nền móng đầu tiên cho nó lại chính là Tiến sĩ Harold Cummins, bởi ông là người đầu tiên thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa sự hình thành và phát triển các đường nét trên lòng bàn tay và sự phát triển của bộ não vào năm 1926.
Bạn nên xem: Có nên làm sinh trắc vân tay cho con hay không ?
Phương pháp Cummins là công nghệ đầu tiên được sử dụng để biểu diễn các hệ gen và các mối quan hệ tiến hóa. Ông cũng là người xuất bản tập sách “Finger Prints, Palms and Soles” được đúc kết từ những nghiên cứu của mình vào năm 1943. Kể từ những nghiên cứu của Cummins, sinh trắc vân tay sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán và phân tích hành vi của những người bị tâm thần phân liệt, chậm phát triển tâm thần và nhiều bệnh như bệnh tim.
CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA SINH TRẮC VÂN TAY
Vậy ngoài Cummins, những ai là người đã đóng góp nghiên cứu cho Sinh trắc vân tay? Hãy cùng điểm qua những mốc phát triển tiêu biểu của Sinh trắc vân tay dưới đây:
Năm 1684: Tiến sĩ Nehemiah Grew (1641-1712) giới thiệu Finger Prints, Palms and Soles đến Hội Hoàng gia.
Năm 1685:Tiến sĩ Bidloo công bố tấm bản đồ giải phẫu, minh họa các chỉ số của con người có liên quan đến thái độ sống.
Năm 1686: Tiến sĩ Marcello Malphigi (1628-1694) đưa ra luận thuyết về các loại vân tay: xoắn, móc, vòm trong dấu vân tay (Whorl, Loop, Arch).
Năm 1788: J.C.Mayer là người đầu tiên viết ra các nguyên lý cơ bản về phân tích vân tay. Ông cũng là người đưa ra giả thuyết rằng dấu vân tay là duy nhất.
Năm 1788: J.C.Mayer là người đầu tiên viết ra các nguyên lý cơ bản về phân tích vân tay. Ông cũng là người đưa ra giả thuyết rằng dấu vân tay là duy nhất.
Năm 1823: Joannes Evangelista Purkinji, một giáo sư giải phẫu học tại Đại học Breslau nhận thấy các hoa văn trên đầu ngón tay của một người và những đường nhú giống hình núi trên đầu ngón tay bắt đầu hình thành vào khoảng tuần thứ mười ba trong bụng mẹ và xuất bản luận án nghiên cứu của mình về phân loại vân tay.
Năm 1832: Bác sĩ Charles Bell là một trong những người đầu tiên kết hợp nghiên cứu khoa học về giải phẫu thần kinh với thực hành lâm sàng.
Năm 1892: Tiến sĩ Francis Galton, một nhà nhân chủng học người Anh đồng thời là một trong những họ hàng của Charles Darwin, đã xuất bản cuốn sách nghiên cứu về dấu vân tay của mình. Nguyên cứu của ông đã đưa ra đặc điểm tính cá nhân dựa trên dấu vân tay cũng như việc dấu vân tay không biến đổi trong suốt cuộc đời một người. Cuốn sách bao gồm hệ thống phân loại đầu tiên cho dấu vân tay bao gồm Arch, Loop và Whorl.
Năm 1897: Harris Hawthorne Wilder là người Mỹ đầu tiên nghiên cứu về Sinh trắc vân tay. Ông là người phát minh ra chỉ số Main Line.
Năm 1926: Tiến sĩ Harold Cummins & Charles Midlo đưa ra nghiên cứu tất cả các khía cạnh của phân tích dấu vân tay, từ nhân chủng học đến di truyền học và quan điểm phôi thai. Họ cũng là người đặt ra thuật ngữ “Dermatoglyphics” cho sinh trắc vân tay.
Năm 1943: Harold Cummins đã xuất bản một cuốn sách kinh điển trong lĩnh vực da liễu với tựa đề “Finger Prints, Palms and Soles”.
Năm 1944: Julius Spier, nhà tâm lý học phân tích tâm lý, đã đưa ra công chúng một số khám phá quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển tâm thần và tình dục, sự mất cân bằng và mối liên hệ của các vấn đề này với hình dạng vân tay.
Năm 1968: Sarah Holt đưa ra nghiên cứu của mình về các mẫu da và dấu vân ở ngón tay và lòng bàn tay của liễu của các chủng tộc khác nhau.
Năm 1969: John J. Mulvihill, MD và David W. Smith, MD xuất bản cuốn sách “The Genesis of Dermatoglyphics” đưa ra cách vân tay hình thành.
Năm 1970: Liên Xô áp dụng sinh trắc vân tay trong việc chọn thí sinh tham dự Thế vận hội và giành được hơn 50 huy chương vàng.
Năm 1976: Cuốn sách “Dermatoglyphics in Medical Disorders” của Schaumann và Alter được xuất bản, đưa ra dấu hiệu của những bệnh bẩm sinh dựa trên sinh trắc vân tay bao gồm bệnh tim bẩm sinh, bệnh bạch cầu, ung thư, rubella phôi, bệnh Alzheimer, tâm thần phân liệt,… Nghiên cứu về sinh trắc vân tay được lồng vào nghiên cứu di truyền và chẩn đoán các khuyết tật nhiễm sắc thể.
Năm 1980: Trung Quốc thực hiện nghiên cứu về tiềm năng con người, trí thông minh và tài năng trong mối tương quan về da liễu và hệ gen người.
Năm 1983: Howard Gardner phát triển lý thuyết về Đa trí tuệ .
Năm 1985: Chen Yi Mou – tiến sỹ của Đại học Harvard – đưa ra nghiên cứu về sinh trắc vân tay dựa trên lý thuyết Đa trí tuệ của Howard Gardner. Sinh trắc vân tay bắt đầu được áp dụng cho các lĩnh vực giáo dục và sinh lý học về não.
1986: Giải Nobel Sinh lý học được trao cho Rita Levi-Montalcini và Stanley Cohen trong sự khám phá mối tương quan giữa NGF (Yếu tố tăng trưởng thần kinh) và EGF (Yếu tố tăng trưởng biểu bì).
Năm 2000: DrStowens – Trưởng khoa bệnh lý tại bệnh viện St Luke ở New York – tuyên bố có thể chẩn đoán tâm thần phân liệt và bệnh bạch cầu với độ chính xác tới 90%. Ở Đức, Tiến sĩ Alexander Rodewald báo cáo rằng ông có thể xác định nhiều bất thường bẩm sinh với độ chính xác 90%.
SINH TRẮC VÂN TAY GIÚP CHÚNG TA ĐIỀU GÌ ?
Trong gần hai thế kỷ phát triển của sinh trắc vân tay, các nhà khoa học đã khám phá ra mối liên quan giữa dấu vân tay và trí thông minh của con người, làm tiền đề để nhiều nhà khoa học và chuyên gia y học đã nghiên cứu về sinh trắc vân tay thông qua việc cách quan sát, ghi chép, so sánh, lắp ráp và cuối cùng tổ chức tất cả các dữ liệu để có được một phân tích chính xác về tài năng và thế mạnh tiềm ẩn của một cá nhân.
Ngày nay, các nước tiên tiến như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan đã áp dụng sinh trắc vân tay trong các lĩnh vực giáo dục với mong muốn nâng cao chất lượng giảng dạy và nâng cao hiệu quả học tập bằng.
Sinh trắc phân tay là một bộ môn khoa học cực kì thú vị vì nó có thể tích hợp phân tích khoa học não, tâm lý học, y học, di truyền học và khoa học hành vi vào cùng một nghiên cứu. Dựa trên kết quả của sinh trắc vân tay, một cá nhân có thể định hướng suy nghĩ, sử dụng tiềm năng của mình để học tập và phát triển bản thân.
Bạn nên xem: Bao nhiêu tuổi thì phù hợp làm sinh trắc dấu vân tay
Cũng từ những nghiên cứu về sinh trắc vân tay mà các chuyên gia y tế và nhà khoa học phát hiện ra rằng số lượng tế bào não phân bố ở các phần khác nhau của não giúp chúng ta hiểu được trí thông minh của nhiều người cũng như khả năng và tính cách tiềm năng bẩm sinh của mình.
Dấu vân tay tiết lộ những kiến thức chúng ta cần có thông qua một phương pháp giáo dục toàn diện để có thể thay đổi cuộc sống. Những thông tin mà dấu vân tay tiết lộ phải được phân tích và chứng minh qua những bằng chứng về nhân học, di truyền học, y học và thống kê.
Mặc dù Sinh trắc vân tay có thể xác định tiềm năng của một người, con người không thể đạt được tiềm năng đầy đủ của mình nếu không có trau dồi và đào tạo. Nếu dấu vân tay của bạn xác định rằng người ta có tiềm năng về nghệ thuật, nhưng thiếu đào tạo kỷ luật, tiềm năng của một người có thể bị ẩn đi.